Khai báo mảng 1 chiều :
+ Mảng có N phần tử , chỉ số của các phần tử là số nguyên từ 1 đến N
Type Tên_kiểu = Array[1..N] of <Kiểu_phần _tử >;
Var Tên_biến : Tên_kiểu ;
+ Mảng có N phần tử , chỉ số của các phần tử là số nguyên từ -1 đến N-2
Type Tên_kiểu = Array[-1..N-2] of <Kiểu_phần _tử >;
+ Mảng có 10 phần tử , chỉ số của các phần tử là kí tự từ A đến K
Type Tên_kiểu = Array[ A .. K] of <Kiểu_phần _tử >;
Khai báo mảng 2 chiều :
+ Mảng có N xN phần tử , chỉ số của các phần tử là cặp số nguyên từ (i,j)
Type Tên_kiểu = Array[1..N,1..N ] of <Kiểu_phần _tử >;
Khai báo mảng 3 chiều :
+ Mảng có N xN xN phần tử , chỉ số của các phần tử là bộ 3 số nguyên từ (i,j,k)
Type Tên_kiểu = Array[1..N,1..N ,1..N ] of <Kiểu_phần _tử >;
Chú ý :
Mỗi phần tử thứ i của mảng 1 chiều ( mảng A với chỉ số nguyên chẳng hạn ) được tương ứng với 1 ô nhớ trong máy Muốn nạp hoặc lấy giá trị ô nhớ đó , phải thông qua phần tử thứ i của mảng tương ứng với ô nhớ ấy kí hiệu là A[i] ,
Mỗi phần tử có chỉ số (i,j) của mảng 2 chiều ( mảng A với chỉ số là cặp số nguyên chẳng hạn được kí hiệu A[i,j] trong đó i là chỉ số hàng ,j là chỉ số cột
Như vậy việc duyệt các giá trị của các phần tử của mảng rất dễ dàng . Song cần lưu ý biến chỉ số của mảng không được vượt ra ngoài phạm vi đã khai báo . Thí dụ Mảng A khai báo có 10 phần tử với chỉ số từ -5 đến 4 thì kí hiệu A[5] là phạm lỗi .
Nhược điểm của kiểu mảng là tốn bộ nhớ do khai báo ban đầu phải lường trước mọi giá trị của dãy nào đó đều được đưa vào mảng , nên kích thước mảng sẽ lớn , nhưng thực tế có thể không dùng hết các phần tử của mảng đã khai báo.